
Nhật Bản ở thời kỳ băng hà cuối cùng, hậu kỳ thế Pleistocen khoảng 20.000 năm trước
- Vùng đất trên mực nước biển
- Thực vật không mọc được
- Biển
Thời kỳ đồ đá Nhật Bản cũng có sự độc đáo là sự xuất hiện của các đá móng và công cụ được mài nhẵn sớm nhất trên thế giới niên đại khoảng 30.000 năm TCN một công nghệ đặc trưng gắn với sự mở đầu của thời kỳ đồ đá mới khoảng 10.000 năm TCN tại phần còn lại của thế giới. Không rõ tại sao những công cụ như thế này lại được làm ra sớm đến thế ở Nhật Bản mặc dù thời kỳ này gắn với sự ấm lên toàn cầu (cách ngày nay khoảng 30.000-20.000 năm), và các hòn đảo có lẽ đã hưởng lợi từ nó. Vì sự độc đáo này thời kỳ đồ đá cũ Nhật Bản không hoàn toàn phù hợp với định nghĩa theo truyền thống về thời kỳ đồ đá cũ dựa trên công nghệ chế tác đá (công cụ đá mài). Các công cụ thời kỳ đồ đá cũ Nhật Bản do đó thể hiện những đặc điểm tiêu biểu của thời kỳ đồ đá giữa và thời kỳ đồ đá mới từ những năm 30.000 TCN.
Dân cư thời kỳ đồ đá cũ ở Nhật Bản cũng như dân cư thời Jōmon sau này có liên quan đến các nhóm người châu Á cổ sinh sống trên những phần rộng lớn của châu Á sau sự gia tăng dân số cấu thành bộ phần người ngày nay là người Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Các đặc điểm tiêu biểu của xương có rất nhiều điểm tương đồng giữa những nhóm người bản địa trên lục địa châu Á. Cấu trúc răng thuộc về nhóm Sundadont (răng Sunda) chủ yếu phân bố trong dân cư cổ ở Đông Nam Á (nơi dân cư hiện nay thuộc về nhóm Sinodont (răng Trung Quốc)). Đặc điểm hộp sọ có xu hướng khỏe hơn với đôi mắt sâu.
Dân cư bản địa người Ainu ngày nay phần lớn hạn chế trên hòn đảo phía Bắc Hokkaidō có lẽ là hậu duệ của dân cư thời đồ đá cũ và thể hiện các đặc điểm trong quá khứ được chỉ rõ là của đại chủng Âu, nhưng ngày nay có khuynh hướng nói chung coi họ là một phần của nhóm người sơ kỳ đồ đá cũ. Phân tích gen dân cư ngày nay không hoàn toàn rõ ràng và có xu hướng thể hiện sự pha trộn gen giữa dân cư tối cổ Nhật Bản với những người mới đến (Cavalli-Sforza). Ước tính rằng 10 đến 20% gen chủ yếu của người Nhật hiện nay nhận được từ người bản địa cổ đại thời kỳ đồ đá cũ-Jōmon với phần còn lại đến từ những người nhập cư từ lục địa đặc biệt là trong thời kỳ Yayoi.
- Vùng đất trên mực nước biển
- Thực vật không mọc được
- Biển
Thời kỳ đồ đá Nhật Bản cũng có sự độc đáo là sự xuất hiện của các đá móng và công cụ được mài nhẵn sớm nhất trên thế giới niên đại khoảng 30.000 năm TCN một công nghệ đặc trưng gắn với sự mở đầu của thời kỳ đồ đá mới khoảng 10.000 năm TCN tại phần còn lại của thế giới. Không rõ tại sao những công cụ như thế này lại được làm ra sớm đến thế ở Nhật Bản mặc dù thời kỳ này gắn với sự ấm lên toàn cầu (cách ngày nay khoảng 30.000-20.000 năm), và các hòn đảo có lẽ đã hưởng lợi từ nó. Vì sự độc đáo này thời kỳ đồ đá cũ Nhật Bản không hoàn toàn phù hợp với định nghĩa theo truyền thống về thời kỳ đồ đá cũ dựa trên công nghệ chế tác đá (công cụ đá mài). Các công cụ thời kỳ đồ đá cũ Nhật Bản do đó thể hiện những đặc điểm tiêu biểu của thời kỳ đồ đá giữa và thời kỳ đồ đá mới từ những năm 30.000 TCN.
Dân cư thời kỳ đồ đá cũ ở Nhật Bản cũng như dân cư thời Jōmon sau này có liên quan đến các nhóm người châu Á cổ sinh sống trên những phần rộng lớn của châu Á sau sự gia tăng dân số cấu thành bộ phần người ngày nay là người Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Các đặc điểm tiêu biểu của xương có rất nhiều điểm tương đồng giữa những nhóm người bản địa trên lục địa châu Á. Cấu trúc răng thuộc về nhóm Sundadont (răng Sunda) chủ yếu phân bố trong dân cư cổ ở Đông Nam Á (nơi dân cư hiện nay thuộc về nhóm Sinodont (răng Trung Quốc)). Đặc điểm hộp sọ có xu hướng khỏe hơn với đôi mắt sâu.
Dân cư bản địa người Ainu ngày nay phần lớn hạn chế trên hòn đảo phía Bắc Hokkaidō có lẽ là hậu duệ của dân cư thời đồ đá cũ và thể hiện các đặc điểm trong quá khứ được chỉ rõ là của đại chủng Âu, nhưng ngày nay có khuynh hướng nói chung coi họ là một phần của nhóm người sơ kỳ đồ đá cũ. Phân tích gen dân cư ngày nay không hoàn toàn rõ ràng và có xu hướng thể hiện sự pha trộn gen giữa dân cư tối cổ Nhật Bản với những người mới đến (Cavalli-Sforza). Ước tính rằng 10 đến 20% gen chủ yếu của người Nhật hiện nay nhận được từ người bản địa cổ đại thời kỳ đồ đá cũ-Jōmon với phần còn lại đến từ những người nhập cư từ lục địa đặc biệt là trong thời kỳ Yayoi.
Theo Wikipedia Nhật Bản
Tin mới hơn:
- 06/08/2012 03:20 - Lịch sử Nhật Bản thời kỳ Nara
- 06/08/2012 03:15 - Lịch sử Nhật Bản thời kỳ Asuka
- 06/08/2012 03:10 - Lịch sử Nhật Bản thời kỳ Kofun
- 06/08/2012 03:00 - Lịch sử Nhật Bản thời kỳ Yayoi
- 06/08/2012 02:54 - Lịch sử Nhật Bản thời kỳ Jomon
Tin cũ hơn:
- 03/08/2012 04:46 - Bản đồ nước Nhật
- 02/08/2012 09:04 - Tỉnh Okinawa (沖縄県 Okinawa-ken)
- 02/08/2012 08:45 - Tỉnh Nagasaki (長崎県 Nagasaki-ken)
- 02/08/2012 08:36 - Tỉnh Saga (佐賀県 Saga-ken)
- 02/08/2012 08:24 - Tỉnh Kagoshima (鹿児島県 Kagoshima-ken)